Theo các chuyên gia, ngành công nghiệp thép ở Việt Nam hiện đang trải qua một tình trạng trái ngược: thừa cung trong việc sản xuất thép xây dựng nhưng lại thiếu hụt về loại thép phục vụ cho ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, sản xuất ô tô và đóng tàu. Điều này khiến Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn thép, chủ yếu là loại này.

Theo ông Trương Thanh Hoài, trong khi việc sản xuất thép xây dựng trong nước đang thừa thải, thì nhu cầu về thép phục vụ cho ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo lại đang gặp thiếu hụt trầm trọng. Điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách cho việc thay đổi hướng phát triển và quy hoạch trong ngành thép trong tương lai.

Theo các chuyên gia, ngành công nghiệp thép ở Việt Nam hiện đang trải qua một tình trạng trái ngược: thừa cung trong việc sản xuất thép xây dựng nhưng lại thiếu hụt về loại thép phục vụ cho ngành công nghiệp cơ khí, chế tạo, sản xuất ô tô và đóng tàu. Điều này khiến Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn thép, chủ yếu là loại này.

Theo số liệu từ Hiệp hội Thép Việt Nam, vào năm 2015, Việt Nam đã nhập khẩu hơn 14 triệu tấn thép từ các nguồn khác. Trong 7 tháng đầu năm nay, con số này đã lên đến 10,3 triệu tấn. Dựa trên xu hướng này, Hiệp hội dự báo rằng Việt Nam có thể nhập khẩu khoảng 17,5 triệu tấn thép vào năm 2016.

Ông Trương Thanh Hoài, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công Thương), đã chỉ ra rằng nhu cầu về thép trong nước vẫn đang tăng lên. Trong giai đoạn từ 2025 đến 2030, nhu cầu có thể lên đến khoảng 25 - 35 triệu tấn thép của mọi loại. Tuy nhiên, năng lực sản xuất thép của Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 11 triệu tấn, tương đối đáp ứng được nhu cầu, nhưng sản xuất thép phục vụ cho ngành công nghiệp còn rất hạn chế, chỉ khoảng 4 triệu tấn. Đối với các sản phẩm cuốn cán nóng, Việt Nam phải hoàn toàn dựa vào nhập khẩu.

Theo ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép, mặc dù ngành thép đã có khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước về thép xây dựng, thép ống hàn, thép cuộn cán nguội và tôn mạ, nhưng do phát triển của ngành này chưa đồng bộ, nhiều loại thép vẫn chưa được sản xuất trong nước, như thép cuốn cán nóng, thép cuốn cán nguội, thép hợp kim và thép công nghiệp. Điều này khiến nhu cầu nhập khẩu vẫn còn lớn.

Nhìn vào năng lực của các doanh nghiệp trong nước, ông Sưa thể hiện sự lo lắng về sự cạnh tranh giữa thép trong nước với thép nhập khẩu, đặc biệt là thép giá rẻ từ Trung Quốc. Hầu hết các doanh nghiệp thép ở Việt Nam đều ở mức vừa và nhỏ.

Để giải quyết vấn đề này, Bộ Công Thương đã áp dụng các biện pháp tự vệ đối với thép và phôi thép nhập khẩu. Tuy nhiên, đây chỉ là các biện pháp tạm thời. Trong tương lai, các doanh nghiệp thép cần nâng cao năng lực cạnh tranh, cả về công nghệ lẫn tài chính và quản lý. Điều quan trọng là cần có các doanh nghiệp quy mô lớn đủ để cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Theo ông Trương Thanh Hoài, ngành thép hiện nay chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ, chủ yếu tập trung vào việc sản xuất thép xây dựng. Hiện không có doanh nghiệp nào có sản lượng hàng năm trên 2 triệu tấn. Trong bối cảnh việc loại bỏ hàng rào thuế quan, việc tạo ra các công ty có quy mô lớn để giảm chi phí sản xuất và vận hành trở nên cực kỳ quan trọng.

Theo ông Trịnh Khôi Nguyên, Phó TGĐ Tổng công ty Thép Việt Nam, các kế hoạch quy hoạch ngành thép của các năm 2001, 2007, 2013 đã đề ra các mục tiêu phát triển, nhưng đã đi quá chi tiết, từng dự án cụ thể, từng chủ đầu tư, từng quy mô nhà máy, từng quy mô sản xuất sản phẩm cụ thể... Điều này phù hợp trong những giai đoạn trước, nhưng hiện nay đã tạo ra một rào cản không cần thiết.

Do đó, ông Nguyên đề xuất rằng để cho các doanh nghiệp ngành thép phát triển theo cơ chế thị trường, cơ quan quản lý nhà nước nên từ bỏ quy hoạch ngành. Điều này cũng phù hợp với dự thảo Luật Quy hoạch đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng. Chính phủ không nên can thiệp quá sâu vào từng dự án cụ thể, mà nên thiết lập các quy định về việc thực hiện đầu tư dự án dựa trên việc xây dựng chính sách cho sự phát triển của ngành, kèm theo chiến lược sử dụng tài nguyên, công nghệ và tiết kiệm năng lượng. Các vấn đề cụ thể của từng dự án, như sản phẩm là gì, quy mô bao nhiêu, nên được thị trường tự quyết định. Điều này sẽ giúp các cơ quan nhà nước quản lý được theo đúng chức năng và vẫn tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tự điều chỉnh theo quy luật thị trường.

 

Đọc thêm các bài viết tin tức về gia công cơ khí tại HSPK.VN